Việt Linh: Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, việc làm thủy sản, việc làm nông nghiệp, tuyển dụng, tìm việc, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.
Đường Trần Hòa gần với đường phố nào?
Thông tin về Đường Trần Hòa, Quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội liên tục được cập nhật tại tinbds.com. Nếu bạn thấy thông tin không chính xác, vui lòng góp ý với ban quản trị website tinbds.com. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn đóng góp của bạn. Từ khóa tìm kiếm:Đường Trần Hòa, Quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội: bản đồ vị trí, các dự án, phường quận huyện thị xã thành phố trực thuộc. Điện thoại UBND, hình ảnh về Trần Hòa, Hoàng Mai, Hà Nội
Trần Quang Khải (chữ Hán: 陳光啓; 24 tháng 08 năm 1241 – 26 tháng 7 năm 1294), hay Chiêu Minh Đại vương (昭明大王), là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Ông làm đến chức Thừa tướng đời Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Trần Anh Tông, coi cả mọi việc trong nước.
Trong kháng chiến chống Nguyên-Mông (1285), Hoàng đế Trần Nhân Tông phong ông chức Thượng tướng Thái sư; ông giữ vai trò nổi bật trong trận phòng thủ Thanh Hóa, Nghệ An và trận đánh tan quân Nguyên tại Chương Dương độ. Ông được Trần Thánh Tông khen là người bề tôi trung hiếu hiếm có; ngoài ra, sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ghi nhận: "Công lao thu phục được nước, ông đứng thứ nhất". Ông còn là người học rộng, giỏi thơ phú, có làm Lạc Đạo tập lưu lại ở đời.
Trần Quang Khải sinh vào tháng 10 âm lịch, năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 10 (1241). Ông là con thứ ba của vua Trần Thái Tông (vị hoàng đế đầu tiên của Nhà Trần), mẹ là Thuận Thiên hoàng hậu Lý thị (con gái trưởng Lý Huệ Tông). Ông là em cùng mẹ với thái tử Trần Hoảng, tức vua Trần Thánh Tông. Người anh đầu của hai ông là Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang, dù được Thái Tông nhận làm con, nhưng thật ra là con của Khâm Minh Đại vương Trần Liễu.
Đại Việt Sử ký Toàn thư, bộ quốc sử Đại Việt biên soạn năm 1479 (thời Hậu Lê), đã để lại 1 chi tiết về thời niên thiếu của Trần Quang Khải:
Từ nhỏ, ông đã được Trần Thái Tông phong tước Chiêu Minh vương (昭明王) và cho thụ giáo với Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu, Bảng nhãn Lê Văn Hưu[5]. Sử chép ông là người có học thức, hiểu tiếng nói của các bộ tộc ít người.[6]
Năm Nguyên Phong thứ 8 (1258), ông được gả Phụng Dương công chúa, con gái của Thái sư Khâm Thiên đại vương Trần Nhật Hiệu, ban cho thái ấp Độc Lập, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Mỹ Thành, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định)[5]. Cùng năm, vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho thái tử Trần Hoảng, tức Trần Thánh Tông, rồi lên làm thái thượng hoàng. Tân quân Trần Thánh Tông phong cho Quang Khải tước Chiêu Minh Đại vương (昭明大王)[7].
Năm Thiệu Long năm thứ 4 (1261), Trần Thánh Tông phong Trần Quang Khải làm Thái úy; ông chính thức tham gia công việc triều chính khi vừa 20 tuổi. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, Thánh Tông có người anh là Tĩnh Quốc đại vương Quốc Khang lớn tuổi hơn, nhưng không có tài cán đặc biệt, nên nhà vua cho Quang Khải làm đại thần.[8]. Năm Thiệu Long năm thứ 8 (1265), nhà vua lại phong Quang Khải làm Thượng tướng, vào trấn thủ Nghệ An. Trại trạng nguyên Bạch Liêu là môn khách của ông[8].
Đầu năm Thiệu Long năm thứ 14 (1271), ông làm Tướng quốc thái úy, trở thành đại thần đầu triều nắm giữ việc nước[8], đứng trên cả Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn.
Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là con của Khâm Minh đại vương Trần Liễu, Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải là con của Thái Tông hoàng đế Trần Cảnh. Theo quan hệ huyết thống thì Thái Tông là em ruột của Khâm Minh đại vương, cho nên, Hưng Đạo vương và Chiêu Minh vương cùng với Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang đều là anh em nửa dòng máu[9]. Ngoài mâu thuẫn giữa dòng chính và dòng thứ, giữa hai ông còn có cả mối bất hòa cá nhân.
Cuối năm 1257, Hưng Đạo vương được cử làm chỉ huy các đạo quân thủy bộ ở biên giới, lập nhiều công lao cho triều đình. Tuy nhiên, sau khi đánh đuổi được quân Nguyên Mông, ông vẫn giữ nguyên tước cũ và trở về thái ấp ở Vạn Kiếp. Trong khi đó, không lâu sau Trần Quang Khải được phong tước Đại vương, và thăng làm Thái úy.
Đầu năm Bảo Phù thứ 5 (1277), Trần Thánh Tông thân chinh đánh các bộ tộc thiểu số ở động Nẫm Bà La (nay thuộc Quảng Bình). Sử chép[6]:
Năm 1278, vua Trần Thánh Tông truyền ngôi cho thái tử Trần Khâm, tức vua Trần Nhân Tông. Đầu năm 1281, sứ nhà Nguyên là Sài Thung đến Thăng Long đòi vua Trần sang chầu. Thung tỏ thái độ rất ngạo mạn:
Vua sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Thung nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Thung làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Thung đứng dậy vái chào mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu của Thung cầm cái tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Thung ra cửa tiễn ông.
Nhờ cách ứng xử khéo léo của Hưng Đạo Vương, Sài Thung thay đổi thái độ. Khi Sài Thung về lại Bắc Kinh, Trần Quang Khải đã làm tặng một bài thơ, trong đó có câu:
Cuối năm Thiệu Bảo thứ 4 (1282), vua Trần Nhân Tông thăng chức Trần Quang Khải làm Thượng tướng Thái sư, nắm cả quyền quân sự lẫn hành chính[10]. Tuy vậy, trước tình hình áp lực nhà Nguyên gia tăng, cuối năm Thiệu Bảo thứ 5 (1283), triều đình tiến phong Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội toàn quốc[10]. Như vậy, về thực quyền quân sự, Hưng Đạo Vương trở thành cấp trên của Chiêu Minh Đại vương.
Mối bất hòa giữa 2 chi họ cũng như bất hòa cá nhân giữa 2 người trở thành một hiểm họa sâu sắc. Nhận ra điều này, Hưng Đạo vương chủ động tìm cách giải hòa:
Một hôm, Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Lại Quang Khải vốn sợ tắm gội, Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Quang Khải:
Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai người càng thêm mặn mà. Bản thân làm tướng văn, tướng võ, giúp rập nhà vua, hai ông đứng hàng đầu.
Đầu năm 1285, quân Nguyên tràn sang tấn công Đại Việt với sức công kích rất mạnh. Thái sư Trần Quang Khải suýt tử thương khi thuyền của ông đang ngủ bị bốc cháy, may nhờ có vợ là Phụng Dương công chúa đánh thức, thoát được.[11]
Tuy nhiên, dưới sự điều động tài tình của Hưng Đạo Vương, quân Đại Việt đã thực hiện các cuộc nghi binh, đưa quân Nguyên vào thế bị động. Năm Ất Dậu (1285), Toa Đô từ Chiêm Thành theo đường bộ kéo ra Nghệ An tấn công quân Nam, có Ô Mã Nhi dẫn quân đi đường biển tiếp ứng. Được tin, Trần Hưng Đạo tâu vua Trần Nhân Tông xin cho Thượng tướng Trần Quang Khải đưa binh vào đóng mặt Nghệ An, và cho Trần Bình Trọng giữ Thiên Trường, rồi rước xa giá ra Hải Dương.
Trần Quang Khải vào đến Nghệ An, chia quân phòng giữ. Thấy thế giặc quá mạnh, ông cho lui quân ra mặt biển và giữ các nơi hiểm yếu [12]. Quân của Toa Đô đánh mãi không được, cạn lương, bèn cùng với Ô Mã Nhi dẫn quân xuống thuyền trở ra Bắc. Trần Quang Khải hay tin cho người về Thanh Hóa cấp báo. Vua Nhân Tông cho Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật cùng Trần Quốc Toản và Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân ra đón đánh tại Hàm Tử Quan thuộc huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên. Quân Nguyên thua to chết hại rất nhiều.[13]
Lúc bấy giờ đại binh của Thoát Hoan đóng tại Thăng Long, còn chiến thuyền thì đóng ở bến Chương Dương, thuộc địa phận huyện Thượng Phúc. Trần Quang Khải được lệnh vua, cùng Trần Quốc Toản và Phạm Ngũ Lão đem quân từ Thanh Hóa đi thuyền vòng đường biển ra đến bến Chương Dương tấn công chiến thuyền của quân Nguyên. Quân Nguyên địch không nổi phải bỏ thuyền lên bờ chạy. Trần Quang Khải đem quân lên bờ đuổi đánh về đến chân thành Thăng Long, nhưng ông lập mưu cho phục binh đóng sẵn ngoài thành.
Thoát Hoan đem quân ra đánh, bị phục binh đánh úp, quân Nguyên đại bại phải bỏ thành Thăng Long vượt sông Hồng giữ mặt Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày nay)[14]. Trần Quang Khải cho quân vào thành chiếm lại Thăng Long, và cho quân về Thanh Hóa báo tin. Trong vòng hai tháng, đại phá quân Nguyên hai lần tại Hàm Tử và Chương Dương, nên khí thế quân sĩ Đại Việt trở nên rất mạnh, sau đó thắng nhiều trận liên tiếp, giết các tướng Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán và đuổi được Thoát Hoan về Trung Quốc.[15]
Ngày 6 tháng 6 âm lịch năm 1285, hai vua Trần ca khúc khải hoàn về kinh sư. Thái sư Trần Quang Khải làm thơ:
Chính sử không chép rõ Trần Quang Khải tham gia trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 3 như thế nào. Sau chiến thắng này, triều đình luận công ban thưởng, Trần Quốc Tuấn có công lớn nhất, được phong tước Đại vương. Trần Quang Khải cũng được xếp công thần hạng nhất.
Đất nước hòa bình, Quang Khải tiếp tục ở ngôi Thái sư, cùng Thái úy Tá Thiên Đại vương Trần Đức Việp (con trai thứ của Trần Thánh Tông) cai quản việc nước.[17]
Ngày 3 tháng 7 âm lịch năm Hưng Long thứ hai (tức 26 tháng 7 năm 1294) đời Trần Anh Tông, ông qua đời[6]. Vợ ông là Phụng Dương công chúa đã mất trước đó 3 năm. Ông bà được chôn cất tại thái ấp của mình, được thờ làm Thành hoàng làng Cao Đài.[5]
Sinh thời, Trần Thánh Tông có làm bài thơ ca ngợi công lao của ông:
Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục do sử thần Đại Nam thời Nguyễn soạn cũng đánh giá về Trần Quang Khải:
"Quang Khải lúc làm tướng võ, lúc làm tướng văn, giúp vương nghiệp nhà Trần, uy danh ngang với Quốc Tuấn."
Con ông là Văn Túc vương Trần Đạo Tái cũng rất có tài văn học, được Thượng hoàng Trần Nhân Tông ưu ái hơn các em thúc bá khác, nhưng đáng tiếc mất sớm.[6]
Trần Quang Khải được người dân Việt Nam lập đền thờ ở một số nơi; như tại đình làng Phương Bông, ngoại thành thành phố Nam Định. Tại Phường Bông cũng lưu lại điệu múa "bài bông" được người dân ở đây cho là khởi xướng bởi Trần Quang Khải trong tiệc "Thái bình diên yến" do Trần Nhân Tông tổ chức sau khi chiến thắng quân Nguyên.[19][20] Tại đền Thái Vi ở Hoa Lư, Ninh Bình ông cùng với Trần Hưng Đạo được đúc tượng phối thờ trong hậu cung cùng với các vị vua nhà Trần.
Vinh danh Trần Quang Khải, tên ông được đặt cho nhiều trường học và đường phố tại Việt Nam.
Cháu nội cháu ngoại có 13 người, đó là từ những người con dòng dõi đích xuất của Chiêu Minh vương Quang Khải. Trong đó Chân Từ công chúa, không rõ tên, lấy con trai của Phán thủ Thượng vị Vũ Ninh hầu, tên là Chiểu.
Trần Quang Khải, cũng như một số quý tộc đời Trần, là người học rộng và có viết văn, làm thơ. Ông viết Lạc đạo tập, và tác phẩm của ông nay còn lại một số bài thơ, liệt kê dưới đây:
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trần Đức Tuấn (sinh năm 1964) là một tướng lĩnh của lực lương Công an nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. Ông hiện giữ chức vụ Chánh Thanh tra Bộ Công an, Ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương Việt Nam.
Từ tháng 7 năm 2017 đến tháng 4 năm 2019, Trần Đức Tuấn là Đại tá, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chánh Văn phòng Bộ Công an.[2][3][4][5]
Từ tháng 7 năm 2019 đến tháng 12 năm 2019, Trần Đức Tuấn được thăng cấp bậc hàm Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam.[6][7]
Từ tháng 1 năm 2020, Thiếu tướng Trần Đức Tuấn giữ chức vụ Chánh Thanh tra Bộ Công an.[8]
Đến giữa năm 2022, ông được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thăng cấp bậc hàm Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. [9]
Trần Khải Ca (tiếng Trung: 陳凱歌, tiếng Anh: Chen Kaige, sinh ngày 12 tháng 8 năm 1952) là một nam diễn viên, nhà biên kịch, đạo diễn kiêm nhà sản xuất điện ảnh người Trung Quốc. Ông được coi là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của thế hệ nhà làm phim thứ năm của điện ảnh Trung Quốc.[1] Những bộ phim của ông thường được đánh giá rất cao về mặt hình ảnh và cách kể chuyện, trong đó đáng chú ý nhất phải kể tới Bá Vương biệt cơ, bộ phim đầu tiên của Trung Quốc được trao giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes.[2]
Tên khai sinh của ông là Trần Ngai Cáp (陈皑鸽) sinh ra tại Bắc Kinh trong một gia đình có truyền thống điện ảnh, bố là Trần Hoài Ngai, một đạo diễn có tiếng.[1] Từ nhỏ Trần Khải Ca đã chơi thân với Điền Tráng Tráng, người sau này trở thành bạn học của Trần ở Học viện Điện ảnh Bắc Kinh và cũng là một trong những đại diện tiêu biểu của "thế hệ thứ 5".
Trong thời kì Cách mạng Văn hóa, Trần Khải Ca từng tham gia Hồng vệ binh, những sự kiện trong giai đoạn này đã ảnh hưởng nhiều tới các tác phẩm sau này của Trần.[3]
Sau khi Cách mạng văn hóa kết thúc, năm 1978 ông theo học tại Học viện Điện ảnh Bắc Kinh, ông tốt nghiệp vào năm 1982 và trở thành một người thuộc thế hệ thứ năm của điện ảnh Trung Hoa.
Sau khi phục vụ trong Giải phóng quân Trung Quốc từ năm 1970 tới 1974, Trần Khải Ca vào làm cho Xưởng phim Bắc Kinh. Tới năm 1978 ông thi đỗ vào khoa đạo diễn Học viện Điện ảnh Bắc Kinh, cùng khóa với Trần Khải Ca có rất nhiều nhân vật nổi bật của điện ảnh Trung Quốc sau này như Điền Tráng Tráng (cùng khoa đạo diễn với Trần), Trương Nghệ Mưu, Cố Trường Vệ (khoa quay phim), Trương Phong Nghị, Trương Thiết Lâm (khoa diễn xuất). Sau khi tốt nghiệp, Trần Khải Ca cùng một số học viên khác trong đó có Trương Nghệ Mưu được cử tới Xưởng phim Quảng Tây. Tại đây vào năm 1984 Trần Khải Ca đã thực hiện bộ phim đầu tay Hoàng thổ địa (黄土地), một trong những tác phẩm quan trọng nhất của thế hệ đạo diễn thứ 5. Với phần quay phim do Trương Nghệ Mưu đảm nhận, Hoàng thổ địa đã được đánh giá rất cao về những đột phá trong nội dung và hình ảnh đồng thời tạo ra bước ngoặt về mặt nghệ thuật cho cả nền điện ảnh Trung Quốc giai đoạn đầu mở cửa.[1] Năm 2005 tại lễ trao Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông, tác phẩm này đã được bình chọn là bộ phim xuất sắc thứ 4 trong lịch sử điện ảnh tiếng Hoa.[4]
Sau thành công đầu tay, Trần Khải Ca tiếp tục cho ra đời các bộ phim có chất lượng cao như Đại duyệt binh (大阅兵, 1986), do Trương Nghệ Mưu quay, và Hài tử vương (孩子王, 1987), Biên tẩu biên xướng (边走边唱, 1991) do Cố Trường Vệ quay. Hai bộ phim sau đều được ban tổ chức Liên hoan phim Cannes chọn vào danh sách dự thi chính thức. Năm 1987 Trần Khải Ca được mời sang thỉnh giảng tại Trường Điện ảnh, Đại học New York,[5] tại đây ông đã đạo diễn video clip bài hát Do You Believe In Shame của nhóm Duran Duran.[6]
Năm 1993, Trần Khải Ca cho ra đời bộ phim nói về số phận những nghệ sĩ Kinh kịch Trung Quốc trong thời kì Cách mạng Văn hóa với tựa đề Bá Vương biệt cơ (霸王别姬). Tác phẩm sau khi công chiếu đã gây tiếng vang lớn với nội dung đầy tính nhân bản với diễn xuất xuất sắc của các diễn viên Trương Quốc Vinh, Củng Lợi, Trương Phong Nghị và phần hình ảnh đẹp của nhà quay phim Cố Trường Vệ. Tại Liên hoan phim Cannes 1993, Bá Vương biệt cơ đã trở thành bộ phim Trung Quốc đầu tiên được trao giải Cành cọ vàng, tác phẩm này cũng là đại diện của Trung Quốc tại Giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất.[7] Tiếp nối thành công của Bá Vương biệt cơ, Trần Khải Ca cho ra đời Phong nguyệt (风月, 1996), một tác phẩm tình cảm khác với hai diễn viên chính Trương Quốc Vinh, Củng Lợi.
Kinh Kha hành thích Tần vương (荊柯刺秦王, 1999) là bộ phim đầu tiên của Trần Khải Ca lấy bối cảnh lịch sử Trung Quốc cổ đại trong đó vai chính, Kinh Kha, được giao cho diễn viên quen thuộc của Trần Khải Ca là Trương Phong Nghị. Năm 2002 Trần được mời thực hiện bộ phim tiếng Anh đầu tiên của ông, Killing Me Softly, tác phẩm với dàn diễn viên gồm Heather Graham và Joseph Fiennes này đã không được đánh giá cao khi công chiếu. Cũng trong năm này Trần Khải Ca quay trở lại với đề tài cuộc sống của những người Trung Quốc bình thường với Hòa nhĩ tại nhất khởi (和你在一起), bộ phim nói về tình cảm cha con của một người cha nghèo với đứa con thần đồng violin. Hòa nhĩ tại nhất khởi đã đem lại cho Trần Khải Ca giải Đạo diễn xuất sắc nhất tại Liên hoan phim quốc tế San Sebastián. Năm 2005 Trần Khải Ca thử sức với dòng phim thương mại kinh phí lớn bằng tác phẩm Vô cực (无极). Đây là một phim lấy bối cảnh cổ đại xen lẫn nhiều yếu tố hư ảo với dàn diễn viên đa quốc tịch gồm Jang Dong-gun, Sanada Hiroyuki và Trương Bá Chi.[6] Sau những chỉ trích cho rằng Trần Khải Ca đã rời bỏ dòng phim nghệ thuật, nhân bản, đạo diễn đã quay trở lại với đề tài quen thuộc của ông bằng bộ phim tiểu sử Mai Lan Phương (梅蘭芳, 2008), một tac phẩm nói về cuộc đời của nghệ sĩ Kinh kịch tài danh Mai Lan Phương (do Lê Minh thủ vai).
Về đời tư, năm 1983 Trần Khải Ca lập gia đình với một nhà khoa học nữ có tên Tôn Gia Lâm (孙加林). Sau khi ly dị, đạo diễn từng đính hôn với Hồng Hoảng, một nữ doanh nhân và là con gái của nhà ngoại giao nổi tiếng Chương Hàm Chí. Tới năm 1996 thì Trần lập gia đình lần thứ 3 với nữ diễn viên Trần Hồng, người từng tham gia nhiều phim của Trần Khải Ca và nổi tiếng với vai Điêu Thuyền trong loạt phim truyền hình Tam quốc diễn nghĩa.[8]